Chỉ có những phát biểu, chia sẻ, đăng tải thông tin nhằm mục đích xâm phạm an ninh quốc gia thì mới có thể phương hại đến an ninh quốc gia.
Một trong những mục tiêu quan trọng của Luật An ninh mạng là bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trên không gian mạng. Điều này xuất phát từ thực trạng an toàn, an ninh trên không gian mạng đang tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Các cuộc tấn công vào hệ thống mạng công nghệ thông tin không ngừng tăng cả về số lượng, cường độ và tính phức tạp. Các nhóm tội phạm ngày một gia tăng với sự hỗ trợ của các tổ chức kinh tế-chính trị và nguy cơ chiến tranh mạng đang hiện hữu, đe dọa hòa bình và an ninh thế giới, chủ quyền quốc gia.
Về vấn đề này, phóng viên phỏng vấn luật sư Giang Hồng Thanh – Văn phòng luật sư Giang Thanh.
PV: Nhiều người vẫn chưa hiểu và băn khoăn tại sao hoạt động phát biểu, đăng tải hay chia sẻ thông tin trên mạng xã hội lại có thể phương hại đến an ninh quốc gia, thưa ông?
Luật sư Giang Hồng Thanh: Chỉ có những phát biểu, chia sẻ, đăng tải thông tin nhằm mục đích xâm phạm an ninh quốc gia thì mới có thể phương hại đến an ninh quốc gia chứ không phải tất cả những phát biểu, đăng tải, chia sẻ thông tin nhằm mục đích khác cũng phương hại an ninh quốc gia.
Các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia được quy định cụ thể tại Chương 13, Bộ luật Hình sự. Ví dụ, hành vi hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, hành vi bạo loạn, khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân, phá hoại chính sách đoàn kết – đây là hành vi được coi là xâm phạm an ninh quốc gia.
Việc phát biểu, đăng tải thông tin nhằm mục đích xâm phạm đến an ninh quốc gia thì ai cũng phải hiểu là gây phương hại đến an ninh quốc gia.
Ví dụ, một người viết bài kêu gọi những người khác lật đổ Nhà nước Việt Nam hoặc kích động hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sau đó mọi người chia sẻ bài viết thì không thể nói việc chia sẻ đó không làm tổn hại hay gây ảnh hưởng xấu tới lợi ích quốc gia.
PV: Những gì xảy ra trong thời gian qua, có thể thấy rất nhiều mối đe dọa trên không gian mạng. Vậy những thông tin nào bị cấm khi hoạt động trên môi trường mạng xã hội, thưa luật sư?
Luật sư Phan Hồng Thanh: Vấn đề này được quy định cụ thể tại Điều 8, Luật an ninh mạng và có hiệu lực vào năm 2019.
Cụ thể, tại khoản 1 quy định: Sử dụng không gian mạng để thực hiện hành vi sau đây: a) Hành vi quy định tại khoản 1 Điều 18 của Luật này; b) Tổ chức, hoạt động, cấu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; c) Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; d) Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho các hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác; đ) Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng; e) Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.
Một trong những hành vi nghiêm cấm tiếp theo là: Thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.
Khoản 3 Điều 8 quy định: Sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông; phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử; xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác.
Khoản 4: Chống lại hoặc cản trở hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh mạng; tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng.
Khoản 5: Lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi.
Khoản 6: Hành vi khác vi phạm quy định của Luật này.
PV: Điều 8 của Luật An ninh mạng đã quy định các hành vi bị nghiêm cấm. Như vậy, các tổ chức, cá nhân hoạt động trên không gian mạng vi phạm pháp luật thì mới chịu sự điều chỉnh của Luật An ninh mạng, còn các hoạt động hợp pháp khác của người dân và doanh nghiệp vẫn hoạt động bình thường. Điều này có thể hiểu một cách ngắn gọn và dễ hiểu như thế nào, thưa luật sư?
Luật sư Giang Hồng Thanh: Nhà nước Việt Nam không bao giờ cấm và ngăn cản người dân hoặc doanh nghiệp hoạt động hợp pháp trên môi trường không gian mạng. Tuy nhiên, ranh giới giữa hợp pháp và trái phép lại khá mong manh, và để phân biệt việc này cũng không phải đơn giản.
Ví dụ, người dân muốn bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình trên tinh thần xây dựng đối với một quyết định của cơ quan Nhà nước hoặc sự kiện nào đó do Nhà nước tổ chức mà người dân cho rằng chưa phù hợp, thì có thể trong cách biểu đạt ý kiến, quan điểm, người dân vô tình sử dụng những ngôn ngữ không đúng chuẩn mực, văn phạm quy tắc. Vậy việc biểu đạt đó có phải là hành vi tuyên truyền chống Nhà nước hay không?
Hoặc một người gặp bất công do người có thẩm quyền gây ra thì người gặp bất công đó lên mạng kêu gọi tranh thủ sự ủng hộ của mọi người, thì việc kêu gọi đó có phải là lôi kéo, tụ tập đông người hay không?
Nếu không tỉnh táo phân biệt được thì đôi khi chúng ta tưởng những hành động của mình đúng pháp luật nhưng vô tình lại là trái phép.
PV: Với những hành vi vi phạm Luật An ninh mạng như những clip kêu gọi tụ tập đông người... thì sẽ bị xử lý như thế nào, thưa luật sư?
Luật sư Giang Hồng Thanh: Việc kêu gọi tụ tập đông người có bị xử lý hay không phụ thuộc vào mục đích kêu gọi. Nếu mục đích nhằm kích động mọi người phá hoại cơ sở vật chất của cá nhân, tổ chức khác nhằm chống lại người thi hành công vụ thì việc kêu gọi đó sẽ bị xử lý hình sự.
Nếu việc kêu gọi chỉ nhằm mục đích tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng thì quan điểm của tôi cho rằng hành vi đó không vi phạm pháp luật.
PV: Doanh nghiệp có hoạt động cung cấp dịch vụ mạng viễn thông, mạng internet có trách nhiệm như thế nào để bảo vệ an ninh mạng và lợi ích quốc gia?
Luật sư Giang Hồng Thanh: Doanh nghiệp có hoạt động cung cấp dịch vụ mạng viễn thông, mạng internet có một số trách nhiệm: xác thực thông tin khi người dùng đăng ký tài khoản số; bảo mật thông tin, tài khoản của người dùng; cung cấp thông tin người dùng cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an khi có yêu cầu bằng văn bản để phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng;
Ngăn chặn việc chia sẻ thông tin, xóa bỏ thông tin có nội dung quy định tại Khoản 1,2,3,4,5 Điều 16 Luật An ninh mạng trên dịch vụ hoặc hệ thống thông tin do cơ quan tổ chức trực tiếp quản lý chậm nhất 24 giờ kể từ thời điểm có yêu cầu của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bộ TT&TT. Lưu nhật ký hệ thống để phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng trong thời gian theo quy định của Chính phủ.
Không cung cấp hoặc ngừng cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet hoặc các dịch vụ gia tăng cho tổ chức, cá nhân đăng tải trên không gian mạng thông tin có nội dung quy định tại các Khoản 1,2,3,4,5 Điều 16 Luật An ninh mạng, khi có yêu cầu của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bộ TT&TT.
Những Khoản 1,2,3,4,5 Điều 16 Luật An ninh mạng quy định thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam; có nội dung kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng, có nội dung làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; có nội dung sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho các hoạt động kinh tế-xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan Nhà nước hoặc người thi hành công vụ; xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.
PV: Xin cảm ơn ông.
Theo VOV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét